DẪN NHẬP
Đạo luật quy định về cạnh tranh lần đầu tiên được ban hành vào năm 2004 (có hiệu lực từ 01/07/2005) đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý thống nhất cho các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Sau hơn 13 năm thi hành, với sự thay đổi sâu rộng và toàn diện của nền kinh tế và môi trường pháp lý – xã hội, Việt Nam đã ban hành Luật Cạnh Tranh mới (Luật Số 23/2018/QH14 ngày 12/06/2018 có 10 Chương, 118 Điều, có hiệu lực từ 01/07/2019) (“Luật Cạnh Tranh 2018”). Luật Cạnh Tranh 2018 thay thế Luật Cạnh Tranh 2004 và được hướng dẫn bởi Nghị Định Số 35/2020/NĐ-CP ngày 24/03/2020 (“Nghị Định 35”).
Nghị Định 35 có hiệu lực từ 15/05/2020 với những quy định đáng chú ý về:
- Quy định về kiểm soát hoạt động sáp nhập;
- Quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; và
- Quy định về ngưỡng thông báo tập trung kinh tế và sức mạnh thị trường đáng kể.
(“Các Điểm Đáng Chú Ý của Nghị Định 35”)
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điểm qua các quy định nổi bật trên của Nghị Định 35.
CÁC ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý CỦA NGHỊ ĐỊNH 35
1. Định Nghĩa Kiểm Soát, Chi Phối Doanh Nghiệp
Dựa trên tỷ lệ sở hữu và quyền kiểm soát của doanh nghiệp mua lại đối với doanh nghiệp bị mua lại, Nghị Định 35 đưa ra định nghĩa cụ thể về “kiểm soát, chi phối doanh nghiệp” (hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp khác) là khi thuộc một trong các trường hợp sau:[1]
a. Tỷ lệ sở hữu: Doanh nghiệp mua lại giành được quyền sở hữu (i) trên 50% vốn điều lệ hoặc (ii) trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết;
b. Quyền sở hữu/sử dụng tài sản: Doanh nghiệp mua lại giành quyền sở hữu/sử dụng trên 50% tài sản của doanh nghiệp bị mua lại;
c. Quyền liên quan quản trị đối với doanh nghiệp bị mua: Doanh nghiệp mua lại có một trong các quyền sau:
(i) Trực tiếp hoặc gián tiếp ra quyết định liên quan đến (đa số hoặc tất cả) nhân sự quản lý nhất định của doanh nghiệp bị mua lại;
(ii) Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp bị mua lại; và
(iii) Quyết định các vấn đề quan trọng luật định trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại.
Trong khi quy định cũ (Luật Cạnh Tranh 2004 và Nghị Định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn) chỉ đơn thuần quy định về phương thức kiểm soát, chi phối doanh nghiệp thông qua quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị mua lại,[2] thì Nghị Định 35 đã quy định một cách mở rộng hơn, không chỉ giới hạn ở quyền sở hữu tài sản mà còn ở khía cạnh tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ và cổ phần, đặc biệt là các quyền thực tế mà doanh nghiệp mua lại có khả năng tác động đáng kể đến hoạt động kinh doanh, vận hành của doanh nghiệp bị mua lại.
2. Xác Định Sức Mạnh Thị Trường Đáng Kể
Quy định về “sức mạnh thị trường đáng kể” là quy định mới trong Luật Cạnh Tranh 2018 và Nghị Định 35 với các tiêu chí luật định rất cụ thể.[3] Cần lưu ý rằng, quy định về “sức mạnh thị trường đáng kể” là (một trong) các cơ sở để xác định một doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường hay không và điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết cạnh tranh của Nhà nước.
Trong khi Luật Cạnh Tranh 2004 chỉ lấy yếu tố thị phần làm trung tâm trong việc đánh giá sức mạnh thị trường thì Luật Cạnh Tranh 2018 và Nghị Định 35 đã có hướng tham khảo và điều chỉnh theo pháp luật nước ngoài, cụ thể là pháp luật các nước như Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu[4] để bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá và hướng dẫn chi tiết cách xác định các tiêu chí này để luật hóa và định nghĩa khái niệm “sức mạnh thị trường đáng kể”. Điều này giúp cho việc phân tích sức mạnh thị trường của doanh nghiệp trở nên toàn diện và chính xác hơn, các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cũng chủ động và linh hoạt hơn trong việc xem xét và đưa ra đánh giá liệu rằng một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có được xem là đang giữ vị trí thống lĩnh thị trường hay không.
3. Ngưỡng Thông Báo Tập Trung Kinh Tế [5]
Một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp phải thông báo tập trung kinh tế khi vượt quá một trong 4 “ngưỡng” sau đây (dựa trên năm tài chính liền kề trước năm dự kiến thực hiện tập trung kinh tế):

Như vậy:
Nghị Định 35 đã điều chỉnh hướng tiếp cận các giao dịch tập trung kinh tế bằng cách đưa ra nhiều yếu tố mang tính kinh tế khác nhau chứ không tập trung vào mỗi yếu tố thị phần kết hợp như luật cũ.[6]
Mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp dự định tham gia tập trung kinh tế được kiểm soát chặt chẽ hơn (“từ 20% trở lên” so với mức “từ 30% trở lên” theo luật cũ).
4. Thẩm Định Sơ Bộ Việc Tập Trung Kinh Tế
Kết quả thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế sẽ được Uỷ Ban Cạnh Tranh Quốc Gia ra thông báo trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ hoàn chỉnh của các bên. Kết quả của thông báo này sẽ là: (i) cho phép tập trung kinh tế được thực hiện;[7] hoặc (ii) tập trung kinh tế phải thẩm định chính thức.[8]
Nếu sau khi thẩm định sơ bộ, Ủy Ban Cạnh Tranh Quốc Gia quyết định rằng cần phải tiến hành thẩm định chính thức thì thẩm định chính thức sẽ được tiến hành trong vòng chín mươi (90) ngày kể từ ngày ra kết quả thông báo thẩm định sơ bộ (có thể được gia hạn nhưng không quá sáu mươi (60) ngày đối với các vụ việc phức tạp và phải thông báo bằng văn bản cho các bên) trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
5. Thoả Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh
Nghị Định 35 hướng dẫn chi tiết việc đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.[9] Tuy nhiên, một điểm mới đáng lưu ý tại Nghị Định này chính là việc quy định “ngưỡng” an toàn của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, hay nói cách khác, khi nào một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là không gây ra hoặc không có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Theo đó: (i) thoả thuận cạnh tranh theo chiều ngang mà thị phần kết hợp nhỏ hơn 5% hoặc (ii) thoả thuận cạnh tranh theo chiều dọc mà thị phần nhỏ hơn 15% được xem là không gây ra tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, thay đổi lớn nhất mà Luật Cạnh Tranh nói chung và Nghị Định 35 nói riêng muốn hướng đến chính là việc kiểm soát một cách chặt chẽ các giao dịch tập trung kinh tế. Các quy định cụ thể có tính tiếp thu pháp luật nước ngoài về ngưỡng thông báo tập trung kinh tế, định nghĩa về chi phối, kiểm soát doanh nghiệp, quy định về xác định sức mạnh thị trường đáng kể, v.v… đã tạo ra hệ thống các quy định về cạnh tranh khá rõ ràng và có tính khả thi trong việc thực thi cao, kể cả từ góc độ quản lý Nhà nước lẫn góc độ doanh nghiệp trong hoạt động thực hiện các giao dịch liên quan thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật mới.
Chú thích:
[1] Điều 2.1 Nghị Định 35;
[2] Điều 34 Nghị Định 116;
[3] Điều 26 Luật Cạnh Tranh 2018, Điều 12 Nghị Định 35;
[4] Xem Hướng dẫn về sáp nhập theo chiều ngang của Bộ Tư pháp và Ủy ban Thương mại công bằng Hoa Kỳ 1992; Quy định của Hội đồng châu Âu về kiểm soát tập trung giữa các doanh nghiệp (EC) 139/2004;
[5] Điều 13 Nghị Định 35;
[6] Điều 20 Luật Cạnh tranh 2004;
[7] Xem thêm các trường hợp tập trung kinh tế được thực hiện tại Điều 14.2 Nghị Định 35;
[8] Điều 37 Luật Cạnh tranh; Điều 14.4 Nghị Định 35;
[9] Điều 11.2 Nghị Định 35;
_____________________________________________________________________________
Nội dung của bài viết này không tạo thành tư vấn pháp lý và không khuyến khích bạn đọc dựa vào. Tư vấn chuyên sâu sẽ được thực hiện tùy theo từng trường hợp cụ thể của bạn đọc. Chúng tôi, Công ty Luật TNHH Quốc Tế Blue Pisces, giữ bản quyền bài viết trong việc đăng tải thông tin đến mọi người. Bài viết sẽ không được đăng tải lại cũng như truyền tải dưới bất kỳ hình thức nào hoặc theo bất kỳ phương tiện nào, cho dù là toàn bộ hoặc một phần, mà không có sự đồng ý trước đó bằng văn bản của chúng tôi.
BLUE PISCES LLC.
54Bis Nguyễn Đình Chiểu, Phường Đa Kao, Quận 1, Tp.HCM, Việt Nam
T: +84 28 6287 4289